PDA

View Full Version : Đường lưỡi bò ở đâu ra? - Kỳ 1: Manh nha xâm chiếm Hoàng Sa - Trường Sa



qualong
08-13-2012, 07:49 AM
TT - Hoàng Sa và Trường Sa chưa bao giờ xuất hiện trong các địa đồ hay thư tịch của Trung Quốc cho đến nửa đầu thế kỷ 20. Các bản đồ đời nhà Thanh ấn hành từ thế kỷ 19 đến đầu thế kỷ 20 đều khẳng định điểm cực nam của Trung Quốc chỉ dừng ở phủ Quỳnh Châu tại vĩ tuyến 18,13 độ vĩ bắc.

Trong khi quần đảo Hoàng Sa nằm ở vĩ tuyến 17,15 độ vĩ bắc và quần đảo Trường Sa ở từ vĩ tuyến 12 đến 8 độ vĩ bắc.

http://i1212.photobucket.com/albums/cc451/qualong/wfrkjl__.jpg
Đô đốc Lý Chuẩn, người được Trung Quốc cho rằng đã “thu phục Tây Sa” bằng pháo hạm năm 1909 - Ảnh: hudong.com

“Nâng cấp” chuyến đi của Lý Chuẩn

Cương giới của Trung Quốc từ cổ chí kim đều luôn được sử sách địa đồ của họ xác định chỉ nằm tại đảo Hải Nam và không thể vươn xa hơn nữa. Thậm chí, nhiều tài liệu mang tính lịch sử của Trung Quốc còn chứng minh ngược lại rằng Trường Sa và Hoàng Sa là của Việt Nam. Thế mà sau này đến thời đương đại, vì lòng tham trong tuyên bố chủ quyền ở biển Đông, những hậu thế Trung Quốc đã chà đạp sự thật lịch sử đó.

Có thể nói chính quyền Trung Quốc bắt đầu manh nha xâm phạm chủ quyền của Việt Nam ở biển Đông từ năm 1909 và ngày càng bành trướng mưu đồ này cho đến ngày nay. Báo chí Quảng Châu thời bấy giờ đưa tin vào tháng 6-1909, chính quyền Quảng Đông đã đưa hai pháo hạm loại nhỏ do đô đốc Lý Chuẩn dẫn đầu đi một vòng quanh các đảo nằm phía đông đảo Hải Nam, để rồi vào năm 1932 chính quyền Quốc dân đảng của Tưởng Giới Thạch đã nâng cấp chuyến đi của đô đốc Lý Chuẩn là một dấu mốc thời gian để ấn định chủ quyền vô lý của Trung Quốc ở quần đảo Hoàng Sa.

Chuyến đi của Lý Chuẩn được ghi ngắn gọn là “được lệnh của tổng đốc Quảng Đông và Quảng Tây lúc bấy giờ là Trương Nhân Tuấn, tháng 6-1909 đô đốc Lý Chuẩn dẫn đầu hai chiến hạm Phục Ba và Sâm Hạm cùng 170 quan binh đến “thu phục Tây Sa” (tức Hoàng Sa của Việt Nam). Trên thực tế, chuyến đi của đô đốc Lý Chuẩn không phải là một chuyến khảo sát hay thị sát như phía Trung Quốc mô tả, cũng chẳng có chuyện thu phục Hoàng Sa như Trung Quốc từng tưởng tượng. Đó chỉ là chuyến đi mang tính chất “cưỡi ngựa xem hoa”, không hề lưu dấu hay để lại một dấu tích hoặc luận chứng lịch sử cụ thể trên những điểm mà họ đi qua“.

Thế nhưng, người Trung Quốc cứ thổi phồng và ngụy tạo chứng cứ biến chuyến đi này thành chuyến đi lịch sử nên mỗi giai đoạn có một kiểu mô tả khác nhau. Tờ Đại Công Báo ở Thiên Tân ngày 8-10-1933, tức đến 24 năm sau, đã vẽ thêm rằng đô đốc Lý Chuẩn cùng đoàn đội của ông ta đến Hoàng Sa và đã đo, vẽ cũng như đặt tên cho 16 đảo ở đây. Song ai có thể tin chỉ chưa đầy 24 giờ thì Lý Chuẩn có thể làm hết từng ấy việc ở Hoàng Sa và vì sao phải đến 24 năm sau bút ký này mới được đưa ra? Chỉ có người Trung Quốc nói cho người Trung Quốc nghe.

http://i1212.photobucket.com/albums/cc451/qualong/dfkl_.jpg
Bia chủ quyền Việt Nam trên đảo Hoàng Sa do Pháp xây dựng - Ảnh tư liệu

Trung Quốc khơi mào tranh chấp Hoàng Sa

Những chứng cứ do phía Trung Quốc đưa ra về quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa chưa bao giờ xác thực cả về mặt lịch sử lẫn pháp lý. Song mưu đồ xâm chiếm thì đã rõ ngay khi Trung Quốc đưa ra luận điểm để bảo vệ cho chuyến thị sát trái phép quần đảo Hoàng Sa năm 1909 của quan binh nước này, cho rằng quần đảo Hoàng Sa là “quần đảo hoang”, trong khi Việt Nam đã có bằng chứng chứng minh được chủ quyền ở Hoàng Sa và Trường Sa từ thế 17.

Sau chuyến đi của Lý Chuẩn 12 năm, tháng 3-1921 chính quyền quân sự Quảng Đông đã ký một sắc lệnh vô lý sáp nhập Hoàng Sa của Việt Nam vào huyện Châu Nhai, phủ Quỳnh Châu lúc bấy giờ. Rõ ràng hành vi xâm phạm chủ quyền có chủ ý của Trung Quốc đối với Việt Nam diễn ra ngay trong thời kỳ Việt Nam đang bị Pháp xâm lược và mất hết quyền tự chủ về chủ quyền của mình.

Sở dĩ Trung Quốc muốn xâm chiếm Hoàng Sa là vì trước đó trong chuyến thị sát vùng biển này, tàu quan binh nhà Thanh đã phát hiện một nhóm thương nhân người Nhật đang chiếm cứ đảo Pratas nằm gần Hoàng Sa (sau này Trung Quốc gọi là Đông Sa). Trung Quốc không muốn quần đảo Hoàng Sa bị các nước mạnh thời đó nuốt trọn nên đã bắt đầu hoành hành về chủ quyền Hoàng Sa. Đây là mầm mống gây tranh chấp chủ quyền giữa Trung Quốc với Pháp lúc này đang được xem là đại diện cho An Nam (tên gọi Việt Nam lúc bấy giờ). Động thái của Trung Quốc năm 1921 đã khiến Pháp phải nhìn lại, dù tại thời điểm này Trung Quốc chỉ mới xâm phạm chủ quyền Hoàng Sa trên văn bản.

Trước âm mưu xâm chiếm của Trung Quốc và sự manh nha xuất hiện của người Nhật trên tuyến đường biển quan trọng “nối liền giữa Hong Kong và Sài Gòn”, liên tiếp từ năm 1925-1930 Pháp đã có những động thái khẳng định chủ quyền không chỉ ở Hoàng Sa mà còn cả ở Trường Sa. Trước hết, đầu tháng 3-1925 toàn quyền Đông Dương Pasquier đã ra tuyên bố khẳng định quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là thuộc lãnh thổ của Pháp (tức thuộc về An Nam đang là thuộc địa của Pháp lúc bấy giờ).

Tiếp đến ngày 13-4-1930, Pháp đã cho tàu La Malicieuse ra Trường Sa để treo quốc kỳ Pháp. Mười ngày sau đó, Chính phủ Pháp đã tuyên bố thực thi chủ quyền trên quần đảo Trường Sa. Trước đó ngày 20-3-1930, toàn quyền Đông Dương đã yêu cầu Bộ thuộc địa Pháp “Cần thừa nhận lợi ích của nước Pháp ẩn chứa trong việc thay mặt An Nam thực thi chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa”.

Mẩu tin đăng trên báo Advertiser ngày 29-6-1909 cho biết Trung Quốc đưa tàu chiến đến quần đảo Hoàng Sa - Ảnh: trove.nla.gov.au

http://i1212.photobucket.com/albums/cc451/qualong/7uikbvc.jpg
Bình luận của nhà nghiên cứu Đinh Kim Phúc

Cần nhắc lại rằng sau khi thua trận trong chiến tranh Trung - Nhật, nhà Thanh đã ký Hiệp ước Shimonoseki ngày 17-4-1895 (Trung Quốc gọi là Hiệp ước Mã Quan). Theo đó, nhà Thanh nhượng cho Nhật Bản vĩnh viễn chủ quyền đầy đủ của quần đảo Bành Hồ, Đài Loan và phần phía đông vùng biển của bán đảo Liêu Đông cùng với tất cả các tài sản có trên đó như: công sự, kho vũ khí...và khu vực này không bao gồm hai quần đảo Hoàng Sa - Trường Sa.

Điều đó có nghĩa hai quần đảo này đã không được xem là thuộc chủ quyền của Trung Hoa (nhà Thanh)! Điều này hoàn toàn phù hợp với việc các bản đồ Trung Quốc vẽ trong thời kỳ này đã xem Hải Nam là vùng cực Nam của Trung Quốc. Mặt khác, qua sự kiện tàu buôn La Bellona của Đức bị chìm vì đá ngầm vào năm 1885 và tàu Himeji của Nhật bị đắm vào năm 1896 đã bị nhà đương cuộc Trung Hoa ở đảo Hải Nam từ chối trách nhiệm cứu vớt với lý do những vùng này không thuộc lãnh hải và quyền quản hạt của Trung Hoa cho thấy chí ít đến cuối thế kỷ 19, nhà đương cuộc Trung Hoa xem những quần đảo này không thuộc về Trung Quốc

MỸ LOAN

Tranh chấp chủ quyền trên biển Đông từ những năm 1930 đã trở nên gay gắt hơn khi có sự nhúng mũi của chính quyền Trung Hoa Dân Quốc của Tưởng Giới Thạch và Nhật Bản.

Những biến cố lớn liên quan đến số phận Hoàng sa, Trường Sa đã xảy ra vào thời điểm này.

qualong
08-13-2012, 07:52 AM
TT - Khoảng năm 1930-1933 Pháp đã hoàn tất việc thiết lập chủ quyền VN ở hai quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa. Động thái này đã khiến Trung Quốc như ngồi trên lửa, vì họ đang có mưu đồ xâm chiếm Hoàng Sa, Trường Sa.

http://i1212.photobucket.com/albums/cc451/qualong/580100.jpg
Trạm hải đăng do Pháp xây dựng trên đảo Hoàng Sa vào những năm 1930 - Ảnh tư liệu

Đặc biệt, việc tranh chấp chủ quyền ở biển Đông thời điểm này không chỉ giữa Pháp là đại diện cho An Nam với Trung Quốc (Trung Hoa dân quốc) nữa mà nhân tố thứ ba đã xuất hiện: Nhật Bản.

Pháp kiên quyết khẳng định chủ quyền cho An Nam

Liên tiếp những năm sau đó, để ngăn chặn nước thứ ba nhảy vào xâm chiếm cũng như chuẩn bị cho tính pháp lý quốc tế về quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, Pháp đã chủ động thực thi hàng loạt động thái xác định chủ quyền ở hai quần đảo này.

Đối với quần đảo Hoàng Sa, để ngăn chặn mối họa xâm chiếm của chính quyền Trung Hoa dân quốc cũng như Nhật Bản, từ năm 1937 Pháp đã ủy thác cho kỹ sư trưởng Gauthier điều nghiên việc xây dựng một trạm hải đăng ở đảo nhỏ Hoàng Sa (đảo Pattle). Sau đó năm 1938-1939, theo nghị định số 3282 do toàn quyền Đông Dương Brievie ký, Pháp đã triển khai quân binh đến đảo Hoàng Sa xây dựng trạm hải đăng, trạm vô tuyến TFS và trạm khí tượng, song song đó cũng xây dựng thêm một trạm khí tượng khác trên đảo Phú Lâm.

Tại cực nam biển Đông, tháng 3-1933, Pháp đã điều bốn tàu Lamalicieuse, tàu chiến Alerte, hai tàu thủy văn Astrobale và De Lanessan đến Trường Sa. Sau khi đổ bộ lên các đảo ở đây, người Pháp ngay lập tức soạn thảo một văn bản, sau đó thảo ra 11 bản và thuyền trưởng của các tàu cùng bút ký. Sau đó, các văn bản này được đóng kín trong một cái chai rồi đem đến mỗi đảo ở Trường Sa gắn chặt vào một trụ ximăng xây cố định. Thủ tục xác lập chủ quyền đã được hoàn tất.

Trước đó, trong bản ghi chú gửi cho Vụ châu Á đại dương, Bộ Ngoại giao Pháp đã viết: “Việc chiếm đóng quần đảo Trường Sa (Spratley) mà Pháp thực hiện trong hai năm 1931-1932 là nhân danh hoàng đế An Nam”. Đến năm 1938, Pháp tiếp tục cho xây dựng bia chủ quyền, hải đăng, trạm khí tượng thủy văn và một trạm vô tuyến trên đảo Ba Bình (Itu-Aba). Như vậy, tính từ năm 1930-1938, chính quyền thực dân pháp đã nhân danh An Nam (Việt Nam lúc bấy giờ) xác lập chủ quyền rõ ràng ở Hoàng Sa và Trường Sa.

Người Nhật xuất hiện!

Nhật Bản trong khoảng thời gian từ năm 1918-1930 đã có chú ý đến các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa ở biển Đông. Song có lẽ vì còn e ngại sự hiện diện quá mạnh của người Pháp trên biển Đông nên Nhật có phần nhượng bộ.

Ngày 3-7-1938, Bộ Ngoại giao Pháp công bố về việc Pháp chiếm hữu quần đảo Hoàng Sa: “Do sự đáng chú ý của việc chiếm lĩnh quần đảo Hoàng Sa mà vào tháng 7-1938, đại sứ của ta (Pháp) ở Tokyo nhắc lại sự sát nhập quần đảo Trường Sa trước đây vào nước Pháp”.

Nước Nhật đã phản ứng lại sự kiện này, họ cho rằng “từ năm 1917 người Nhật đã khai thác mỏ phốt-phát trên hòn đảo chính”. Chính vì vậy ngày 31-3-1938 Tokyo đã cáo thị với đại sứ Pháp rằng “quần đảo Hoàng Sa là đất của Nhật Bản, đã được đặt dưới luật pháp của Nhật Bản, sát nhập cai trị với lãnh thổ Đài Loan; sự chiếm đóng được bảo đảm bằng một đội cảnh sát biệt phái”.

Ngày 14-7-1938, nhật báo La Croix đã khẳng định: “Cần nhắc lại rằng quần đảo Hoàng Sa là một nhóm các đảo nhỏ và đá ngầm nhô trên mặt nước có vị trí nằm ở phía nam đảo Hải Nam, đối diện với Đông Dương và vừa mới đây có một ít lính Đông Dương được gửi tới đây để bảo vệ trạm phát sóng TSF và ngọn hải đăng mà chính quyền Pháp đã xây dựng trên miền đất này, hơn nữa, đảo này thuộc về thuộc địa của chúng tôi”.

Ngay sau đó Nhật Bản thay đổi thái độ, báo Le Journal ngày 21-8-1938 đã đưa tin:

“Paris, 20-8 (1938). Theo một công bố của Bộ Ngoại giao Pháp chiều hôm qua, Chính phủ Nhật Bản đã chấp nhận quan điểm của Pháp về việc chiếm đóng quần đảo Hoàng Sa của quân đội Pháp. Công bố cũng nhắc lại rằng Nhật Bản đã từng tranh cãi về quyền chiếm hữu quần đảo này, một vị trí có tầm quan trọng trên tuyến đường biển giữa Trung Hoa và Đông Dương”.

Tuy nhiên “giấy không gói được lửa”, do tham vọng lập đầu cầu chiến lược xâm lược Đông Nam Á, năm 1938 Nhật Bản đã nuốt lời với Pháp và xua quân chiếm đảo Phú Lâm ở Hoàng Sa trong cùng năm. Rồi chỉ một năm sau đó (1939) tràn xuống Trường Sa chiếm đảo Ba Bình. Để nhanh chóng hoàn tất ý đồ xâm chiếm, ngày 31-3-1939 Nhật Bản tuyên bố kiểm soát quần đảo Trường Sa. Đến ngày 9-3-1945 Nhật đảo chính Pháp ở Đông Dương. Họ bắt toàn bộ lính Pháp ở Hoàng Sa, Trường Sa làm tù binh.

Nhật đầu hàng, Trung Hoa bắt đầu “nước đục thả câu”

Người Nhật chiếm hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa không lâu thì phải tháo chạy do thất trận khi Thế chiến thứ 2 kết thúc vào tháng 8-1945. Phát xít Nhật đã đầu hàng vô điều kiện khối đồng minh và chính thức ký văn kiện đầu hàng, chấm dứt chiến tranh Thái Bình Dương vào mùa thu năm 1945. Sau đó Nhật rút toàn bộ quân lực ở Hoàng Sa, Trường Sa về nước.

Theo tuyên ngôn Postdam (Đức) ngày 26-7-1945, quân đội Trung Hoa dân quốc giải giáp và cho hồi hương tàn quân Nhật ở miền Bắc Việt Nam (tính từ vĩ tuyến 16 trở ra), trong đó có quần đảo Hoàng sa.Quân đội Anh sẽ giải giáp quân Nhật từ vĩ tuyến 16 trở vào miền Nam Việt Nam, bao gồm cả quần đảo Trường Sa. Điều này đồng nghĩa với việc quân đội của Tưởng Giới Thạch chỉ có nhiệm vụ đến giải giáp tàn quân Nhật ở Hoàng Sa và các vùng nằm trong khu vực đã được tuyên ngôn Postdam ấn định, không có quyền đến quần đảo Trường Sa. Tinh thần tuyên ngôn Postdam cũng chỉ rõ ràng việc giải giáp quân nhân không gắn liền với quyền chiếm cứ lãnh thổ, cho nên cả Trung Hoa dân quốc lẫn nước Anh đều không có chủ quyền ở Hoàng Sa và Trường Sa.

Song, với ý đồ xâm chiếm Hoàng Sa và Trường Sa, chính quyền Tưởng Giới Thạch đã cho quân xuống các quần đảo này rồi tuyên bố chủ quyền. Cuối năm 1946, quân đội Trung Hoa dân quốc đưa bốn tàu chiến do tướng Lâm Tuân dẫn đầu xuôi biển Đông để đến Hoàng Sa và Trường Sa, mà theo luận điệu hết sức vô lý là “giải giáp tàn quân Nhật”, dù thời gian giải giáp đã hết từ lâu.

Bình luận của nhà nghiên cứu Đinh Kim Phúc
Những tài liệu mà bài báo dẫn chứng thiết tưởng đã đủ để chứng minh một sự thật là chính quyền “bảo hộ” của thực dân Pháp ở Đông Dương đã tái xác lập chủ quyền của Việt Nam (để bảo vệ quyền lợi chính trị lẫn kinh tế của chính sách thực dân) trong thời kỳ đô hộ.

Nó đã góp phần đấu tranh bác bỏ lập luận của phía Trung Quốc, trước đây là Trung Hoa dân quốc của Quốc dân đảng trong âm mưu bành trướng lâu dài của chủ nghĩa dân tộc Đại Hán mà bản đồ có đường lưỡi bò xuất hiện vào năm 1947 là một minh chứng hùng hồn nhất.
MỸ LOAN

qualong
08-13-2012, 07:56 AM
TT - Cần phải khẳng định một điều: cho đến năm 1945, cái gọi là “đường lưỡi bò” (hay đường chữ U, đường chín đoạn như ngày nay) chưa hề xuất hiện trong bất cứ tấm bản đồ nào. Vậy nó ra đời lúc nào ?

http://i1212.photobucket.com/albums/cc451/qualong/lamtuan.jpg
Đây là con tàu Thái Bình chở Lâm Tuân và quan binh Trung Hoa dân quốc xuống xâm chiếm đảo Ba Bình tháng 12-1946 - Ảnh: news.ifeng

Mơ hồ lai lịch “đường lưỡi bò”

Về lai lịch “đường lưỡi bò” này, cho đến nay ngay chính những người Trung Quốc bản địa còn nhiều người đang rất mơ hồ về căn nguyên của nó. Nó được vẽ như thế nào, kỹ thuật đo vẽ khảo sát ra sao không ai nói chính xác được. Giới truyền thông, giới sử học, luật gia, chính trị và địa lý học của Trung Quốc mỗi người trình bày mỗi kiểu, thậm chí mâu thuẫn nhau. Đặc biệt, chưa có một tổ chức quốc tế nào công nhận tính hợp pháp của bản đồ này.

Trong tác phẩm The Chinese U-shaped line in the South China sea: points, lines and zones, giáo sư Trường đại học Minh Truyền của Đài Loan Du Kiếm Hồng cho rằng “đường chữ U” (cách người Đài Loan gọi “đường lưỡi bò”) là do một người vẽ bản đồ tư nhân tên Hu Jinjie (Hồ Tấn Tiếp) vẽ từ năm 1914 sau khi Trung Hoa giành lại đảo Đông Sa (Pratas) từ nhóm thương gia người Nhật năm 1909.

Đường chữ U, theo cách mô tả của giáo sư Du, đó là một đường liên tục chạy từ biên giới đất liền của Trung Quốc vòng xuống bao lấy đảo Pratas (Đông Sa) và Hoàng Sa của Việt Nam, xuyên qua eo biển Đài Loan và dừng ở đường tiếp giáp giữa biển Hoa Đông và Hoàng Hải. Nếu nhìn vào lý luận của giáo sư Du Kiếm Hồng thì điểm cuối của đường chữ U chỉ nằm ở khoảng 16 độ vĩ chứ không kéo dài tận quần đảo Trường Sa như hiện nay. Song cho đến nay không một tài liệu nào của Trung Quốc lẫn Đài Loan nói rõ về gốc tích nhân vật Hu Jinjie cũng như đường chữ U kiểu này.

Thế nhưng, một số học giả Trung Quốc lại dẫn chứng trước bản đồ “11 đoạn” Trung Quốc còn các bản đồ được vẽ từ tháng 12-1934 và tháng 4-1935. Trên tờ Tri Thức Thế Giới tháng 9-2011, giáo sư Đại học Phúc Đán Trần Kim Minh đã hàm hồ lý giải rằng do lo sợ trước việc Pháp chiếm chín đảo ở quần đảo Trường Sa năm 1933, Chính phủ Trung Hoa dân quốc đã nhanh chóng lập “Ủy ban thẩm định bản đồ biển và đất liền” để thẩm định lại tên các đảo và bãi đá ở khu vực biển Đông bằng hai thứ tiếng Trung Quốc và Anh.

Công việc thẩm định này hoàn tất vào ngày 21-12-1934 và bốn tháng sau đó đã chính thức công bố “bản đồ các đảo ở biển Đông”, xác định đường giới tuyến trên biển của Trung Quốc kéo dài đến vĩ tuyến 4. Sau đó, năm 1936 nhà địa lý học Bạch Mi Sơ đã đưa bản đồ này vào tập bản đồ “Trung Hoa kiến thiết toàn đồ” do ông chủ biên. Song, hình hài của những tấm bản đồ tiền thân này dường như chưa bao giờ được nhìn thấy, thay vào đó chúng chỉ được mô tả qua lời của các truyền nhân Trung Hoa ở Trung Quốc, Đài Loan và Hong Kong.

http://i1212.photobucket.com/albums/cc451/qualong/lamtuan2.jpg
Tướng hải quân Lâm Tuân (hàng đầu, áo trắng) và các thành viên trên tàu Thái Bình trong cuộc hành quân cưỡng chiếm bất hợp pháp đảo Ba Bình tháng 12-1946 - Ảnh: hudong.com

Dấu vết quan binh Lâm Tuân

Giới học giả Trung Quốc hiện đang khẳng định: chuyến thị sát biển Đông của Lâm Tuân vào cuối năm 1946 mới chính là tiền đề hình thành cái gọi là bản đồ có đường chữ U ngày nay (tức “đường lưỡi bò”).

Và năm 2011, các hãng truyền thông lớn của Trung Quốc đồng loạt đưa bài phân tích của giáo sư Lý Kim Minh và Lý Đức Hà thuộc Đại học Hạ Môn, tỉnh Phúc Kiến nhất nhất khẳng định tiền thân của “đường lưỡi bò” là tấm bản đồ “11 đoạn”, vẽ vị trí các đảo ở biển Đông (Trung Quốc gọi là biển Nam Hải) do Sở Phương vực thuộc Chính phủ Trung Hoa dân quốc vẽ năm 1947 và công bố vào tháng 2-1948.

Theo tư liệu của Tân Hoa xã: sau khi trù bị mọi phương án ra khơi, ngày 24-10-1946 đội tàu bốn chiếc Thái Bình, Vĩnh Hưng, Trung Kiến, Trung Nghiệp của hải quân Trung Hoa dân quốc do tổng chỉ huy Lâm Tuân và phó tướng Diêu Nhữ Ngọc đã xuất phát từ cửa sông Hoàng Phố ở Thượng Hải hướng thẳng về Quảng Châu để ra biển Đông, với chiêu bài là giải giới quân Nhật. Ba ngày sau đó, đoàn đội Lâm Tuân đã được lãnh đạo Quảng Đông lúc bấy giờ là La Trác Anh làm tiệc rượu tiếp đón nồng hậu tại cảng Du Lâm của Quảng Châu rồi thẳng tiến ra biển Đông.

Một tư liệu khác từ Hong Kong có thêm tình tiết: sau khi đến Quảng Châu, do thời tiết ở Quảng Châu khi ấy đột ngột chuyển biến xấu nên cả đoàn tàu phải neo đậu tại cảng này đến hơn một tháng. Khoảng 8 giờ sáng 9-12-1946, đoàn tàu chiến bốn chiếc chia làm hai đội đã từ từ rời cảng Du Lâm, hướng thẳng về phía nam. Phó tổng chỉ huy Diêu Nhữ Ngọc chỉ huy hai tàu Vĩnh Hưng và Trung Kiến tiến xuống quần đảo Hoàng Sa. Tổng chỉ huy Lâm Tuân dẫn đầu hai con tàu Trung Nghiệp và Thái Bình hướng đến quần đảo Trường Sa.

Hai chiếc Vĩnh Hưng và Trung Kiến sau đó đã đến đảo Phú Lâm, đảo chính ở quần đảo Hoàng Sa. Sau khi lên đảo, đoàn người của Diêu Nhữ Ngọc đã đổi tên đảo Phú Lâm thành đảo Vĩnh Hưng.

Còn tổng chỉ huy Lâm Tuân theo tàu Thái Bình hướng thẳng đến quần đảo Trường Sa. Về chi tiết này, giáo sư Lý Kim Minh của Trung Quốc cho rằng gần một tháng sau đó, tháng 12-1946 hai tàu do Lâm Tuân dẫn đầu mới đổ bộ lên đảo Itu Aba (tức đảo Ba Bình của VN) thuộc quần đảo Trường Sa. Lâm Tuân lấy tên con tàu Thái Bình để đặt tên cho đảo này.

Ngoài đoàn thủy thủ, hai con tàu này còn chở theo một số quan chức hành chính của tỉnh Quảng Đông, trong đó có thầy trò Trịnh Tư Duyệt và Tào Hi Mãnh là hai nhân viên của Sở Phương vực thuộc Bộ Nội chính của Chính phủ Trung Hoa dân quốc. Theo tư liệu của Trung Quốc thì hai người này đi theo để làm nhiệm vụ tiếp nhận quần đảo Trường Sa (!?). Ngày 15-12-1946, toàn thể quan binh văn võ đi theo hai tàu này đã có mặt ở đảo này để tiến hành nghi thức dựng bia, tiếp nhận đảo. Đây là một hành động bất hợp pháp, nếu không nói là một sự xâm phạm trắng trợn chủ quyền của VN.

Bình luận của nhà nghiên cứu Đinh Kim Phúc
Khi thương nghị với các nước thuộc phe đồng minh về việc giải giới và xử lý đối với Nhật Bản sau Chiến tranh thế giới thứ hai, trong Tuyên bố Potsdam đưa ra ngày 24-7-1945 giữa Harry S.Truman (tổng thống Hoa Kỳ), Winston Churchill (thủ tướng Anh) và Tưởng Giới Thạch (tổng thống Trung Hoa dân quốc) đã không yêu cầu “thu hồi” Hoàng Sa và Trường Sa về cho Trung Quốc, vì một lẽ đơn giản là hai quần đảo này không thuộc Trung Quốc.
Điều này là lý do giải thích vì sao tại Hội nghị San Francisco 1951 sau đó, các nước đồng minh đã không yêu cầu Nhật Bản trao trả cho Trung Quốc “quần đảo Tân Nam” ( - Shinnan Shoto - Trường Sa) và một phần quần đảo Hoàng Sa mà quân đội Nhật đã chiếm đóng, xây dựng căn cứ quân sự trong Thế chiến thứ hai.
Và như vậy, việc đưa tàu chiến ra chiếm đóng Hoàng sa - Trường sa của tướng Lâm Tuân năm 1946 là một cưỡng chiếm bất hợp pháp.

MỸ LOAN

qualong
08-13-2012, 08:00 AM
TT - Nói về chuyến đi của tướng hải quân Lâm Tuân, lý do mà chính phủ Trung Hoa dân quốc đưa ra là để khảo sát xem tàn quân Nhật còn lẩn khuất đâu đó trên các đảo ở biển Đông hay không.

Song, chính luận điệu này đã cho thấy sự lật lọng của họ, bởi tại thời điểm mà đoàn đội Lâm Tuân xuất bến ra khơi, chính phủ Trung Hoa dân quốc đã hết quyền giải giáp quân Nhật đến những tám tháng. Bằng chứng được ghi rõ trong hiệp ước Trùng Khánh mà họ đã ký với chính phủ thực dân Pháp hồi tháng 2-1946.

http://i1212.photobucket.com/albums/cc451/qualong/bando.jpg
Bản đồ “Nam Hải chư đảo vị trí đồ” do Sở Phương vực (Trung Hoa dân quốc) biên soạn năm 1947 sau chuyến đi của Lâm Tuân. Bản đồ được vẽ và viết bằng tay. Đây là tiền thân của cái gọi là “đường chữ U” hiện nay - Ảnh: hudong.cn

Điều này khẳng định việc cưỡng chiếm bất hợp pháp của họ đối với quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa năm 1946. Và điều nghiêm trọng hơn, “đường lưỡi bò” đã ra đời từ đây, để rồi liếm trọn hơn 80% biển Đông.

“Trại sáng tác đường lưỡi bò”

Một số học giả Trung Quốc đại lục khẳng định chuyến đi từ đảo Phú Lâm thuộc quần đảo Hoàng Sa đến đảo Ba Bình thuộc quần đảo Trường Sa của Việt Nam kéo dài hai tháng. Khi trở về Quảng Châu, tổng chỉ huy Lâm Tuân cùng một số học giả, nhà địa lý và chuyên gia sử học cùng ngồi lại để phác họa, vẽ ra cái gọi là bản đồ “11 đoạn” rồi giao cho Sở Phương vực thuộc bộ nội chính của chính quyền Trung Hoa dân quốc in ấn vào tháng 10-1947.

Tuy nhiên, tư liệu do tuần báo Phượng Hoàng (Hong Kong) trong cuộc gặp gỡ những người liên quan đến chuyến đi của Lâm Tuân đang sống ở Đài Loan lại cho biết người vẽ bản đồ “11 đoạn” không phải Lâm Tuân mà chính là giám đốc Sở Phương vực Phó Giác Kim. Ông này đã căn cứ trên những tư liệu sơ sài của Lâm Tuân, Trịnh Tư Duyệt và Tào Hi Mãnh để vẽ bản đồ trên. Tư liệu trên chỉ kể sơ sài rằng Trịnh Tư Duyệt sau khi trở về lục địa đã cùng với Phó Giác Kim chỉnh lý tư liệu thu thập được trên chuyến hành trình, sau đó trình lên viện hành chính thẩm định để chuẩn bị cho vẽ và in ấn.

Trong mớ tài liệu trình thẩm định này có bản đồ vị trí các đảo ở biển Đông do Bộ nội chính vẽ, bản đồ quần đảo Hoàng Sa, cụm đảo Đông Sa, quần đảo Trường Sa, đảo Phú Lâm và đảo Ba Bình cùng những tư liệu về tên gọi mới và cũ của các đảo ở biển Đông. Cách mô tả của truyền thông Trung Quốc và Hong Kong nhằm tạo cảm giác cho người đọc rằng Trung Quốc đã rất chặt chẽ trong quá trình vẽ bản đồ biển Đông từ lúc này, song trên thực tế ngoài tấm bản đồ 11 đoạn với những ghi chú bằng nét chữ viết tay thì không ai thấy được những bản bút lục thật sự của những tư liệu của “bậc tiền bối” Trung Quốc để lại cho con cháu họ sau này.

Trong cuộc họp buổi chiều 14-4-1947, Bộ nội chính Trung Hoa dân quốc đã triệu tập hội nghị xác định phạm vi và chủ quyền các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Hội nghị quy tụ những quan chức cấp cao của Trung Hoa dân quốc như Phó Giác Kim, tổng tư lệnh Lâm Tuân, đại diện bộ ngoại giao Trần Trạch Tương, đại diện bộ quốc phòng Mã Định Ba và Vương Chính Tự thuộc bộ nội chính. Các thành phần trên đã quyết định lấy vĩ tuyến 4 độ vĩ bắc, với chót điểm là bãi đá ngầm James ở gần Malaysia làm cực nam của bản đồ “đường 11 đoạn”. Đây chính là tiền thân của “đường lưỡi bò” ngày nay, cái mà Trung Quốc gọi là “đường chữ U” hay “đường 9 đoạn”.

Từ “11 đoạn” đến “9 đoạn”

Đến tháng 2-1948, Sở Phương vực đã gộp bản đồ biển Đông này vào “bản đồ khu vực hành chính của Trung Hoa dân quốc” và cho phát hành chính thức chỉ ở Trung Quốc. Chuyện phát hành bản đồ này chỉ diễn ra ở Trung Quốc thời bấy giờ, không có một công bố nào ở quốc tế cũng như khu vực châu Á nên không một quốc gia nào biết được Trung Quốc đã có một bản đồ về biển Đông “11 đoạn” như thế.

Bản đồ “11 đoạn” xuất hiện trong giai đoạn 1947-1949, khi Trung Quốc rơi vào nội chiến giữa Quốc Dân đảng do Tưởng Giới Thạch đứng đầu với quân đội do Đảng Cộng sản Trung Quốc lãnh đạo. Sau ba chiến dịch Liêu Ninh - Thẩm Dương, Hoài Hải và Bình Tân, chỉ trong hai năm 1947-1948, hồng quân Trung Quốc đã bẻ gãy được xương sống của quân đội Quốc Dân đảng khi tiêu diệt 144 sư đoàn quân chính quy và 29 sư đoàn không chính quy của Quốc Dân đảng. Cho đến đầu năm 1949, chính quyền Quốc Dân đảng dần rút khỏi Trung Quốc và tháo chạy về Đài Loan.

Như vậy tấm bản đồ này ra đời chưa được bao lâu đã phải chịu số phận chết yểu khi chính quyền tạo dựng ra nó phải tháo chạy thoát thân khỏi Trung Quốc. Tấm bản đồ phút chốc đã biến thành tờ giấy lộn vô nghĩa khi mà trên trường quốc tế chẳng ai thừa nhận nó.

Thêm vào đó, tính vô hiệu lực của bản đồ này càng được thể hiện rõ khi ngày 4-12-1950, bộ trưởng ngoại giao của Trung Quốc lúc này là Chu Ân Lai đã tuyên bố tán thành bản tuyên ngôn Cairo năm 1943 được ba bên là Anh, Mỹ và Trung Quốc thống nhất, trong đó Trung Hoa dân quốc không đề cập đến quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Hai văn kiện này đều là văn kiện có chứng thực của quốc tế.

Tuy nhiên, lòng tham và mưu đồ “liếm” trọn biển Đông đã được “kế thừa”.

Theo Thời báo Hoàn Cầu, sau khi đuổi Quốc Dân đảng ra khỏi đại lục, năm 1953 Chính phủ CHND Trung Hoa đã phê duyệt cắt bỏ hai đoạn ở vịnh Bắc bộ của Việt Nam để biến “đường 11 đoạn” thành “đường 9 đoạn” nhưng không nêu rõ lý do. “Đường 9 đoạn” này cơ bản giống với “đường 11 đoạn” của Trung Hoa dân quốc, chỉ có điều là nó tham lam hơn, “liếm” sát Việt Nam, Malaysia và Philippines hơn.

Tờ báo này thừa nhận Chính phủ Trung Quốc từ trước tới nay chưa hề “giải thích” hay nói rõ cho cộng đồng quốc tế về sự tồn tại của “đường 9 đoạn”. Điều này đồng nghĩa với việc Bắc Kinh đã thừa nhận tính vô pháp lý của cái gọi là “đường lưỡi bò” trên trường quốc tế. Thế mà giờ đây họ cứ đem cái “sản phẩm tượng trưng” này ra để làm bằng chứng “thuyết phục” về yêu sách chủ quyền vô lý của họ ở biển Đông.


Bình luận của nhà nghiên cứu Đinh Kim Phúc
Ngày 26-11-1943, Tổng thống Hoa Kỳ Franklin D. Roosevelt, Thủ tướng Anh Winston Churchill và Tổng thống Trung Hoa dân quốc Tưởng Giới Thạch đã ký một bản tuyên cáo chung (thường được gọi là Tuyên cáo Cairo) trong đó có đoạn viết:

“Đối tượng của các nước này (tức là của ba nước Đồng minh) là phải tước bỏ quyền của Nhật Bản trên tất cả các đảo ở Thái Bình Dương mà nước này đã cưỡng chiếm từ khi có Chiến tranh thế giới thứ nhất năm 1914 và tất cả các lãnh thổ Nhật Bản đã cướp của người Trung Hoa, như là Mãn Châu, Đài Loan và Bành Hồ, phải được hoàn trả Trung Hoa dân quốc. Nhật Bản cũng sẽ phải bị trục xuất khỏi các lãnh thổ khác đã chiếm được bằng vũ lực và lòng tham”.
Đọc đoạn trích dẫn trên chúng ta thấy Tuyên cáo Cairo có hai quy định quan trọng:
- Một là, chỉ có các đất Mãn Châu, Đài Loan và Bành Hồ được hoàn trả cho Trung Quốc mà thôi.
- Hai là, các lãnh thổ khác mà Nhật Bản chiếm được thì bản tuyên cáo này chỉ quy định việc trục xuất Nhật Bản, chứ không hề nói tới việc hoàn trả chúng cho Trung Quốc.
Như vậy, chúng ta thấy rằng cho đến cuối năm 1943, Tổng thống Tưởng Giới Thạch đã không đề cập đến những quần đảo này trong bản tuyên bố chung cuộc. Nếu hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thật sự thuộc chủ quyền của Trung Quốc thì không có lý gì họ Tưởng chỉ đòi hoàn trả có Mãn Châu, Đài Loan và Bành Hồ mà lại không đòi luôn Hoàng Sa và Trường Sa.

MỸ LOAN

DungNamDinh
08-14-2012, 11:51 PM
Thanks anh Quang về bài viết quá hay, mong anh tiếp tục có những bài viết hay để AE diễn đàn hiểu thêm về tình hình thời sự TQ-VN với 2 quần đảo TS-HS.

bsdvn
09-03-2012, 12:03 PM
giờ này mà còn manh nha gì nữa bác hiệp sĩ, giờ này phải gọi là ngang nhiên, hoặc là trắng trợn rồi bác ơi.

andinhcons
12-27-2012, 03:14 PM
Mẹ, oánh thấy bà nó đi. Mình xin xung phong đi đầu tiên

pro.pr21
01-07-2013, 07:30 PM
Chúc các bạn 1 năm mới vui vẻ và uống ít rượu bia vào nhé

thuymc
03-13-2013, 08:37 PM
aaaaaaaaaaaaaaaaaaaaaaaaaaaaaaaaaaaaaaaaa

Shenlong
03-13-2013, 09:21 PM
Nghe đến "tung của" là thấy sôi máu rồi, xin được phép miễn bàn.